Những Yếu Tố Nguy Cơ Gây Viêm Tuyến Tiền Liệt Mạn Tính

Cập nhật: 06/12/2024 Tác giả: TS.BS.CKII. TRÀ ANH DUY

Trung tâm Sức khoẻ Nam Giới Men's Health


Viêm tuyến tiền liệt mạn tính là tình trạng viêm kéo dài tại tuyến tiền liệt, gây ra nhiều triệu chứng dai dẳng và khó chịu cho nam giới như đau vùng chậu, khó tiểu tiện và rối loạn chức năng sinh dục. Bệnh lý này khó điều trị dứt điểm và dễ tái phát, có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến tuổi tác, lối sống, và các tình trạng sức khỏe khác. Dưới đây là các yếu tố nguy cơ chính gây viêm tuyến tiền liệt mạn tính được xác nhận qua các nghiên cứu khoa học.

Nhiễm khuẩn đường tiết niệu là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến viêm tuyến tiền liệt mạn tính. Nghiên cứu của Krieger và cộng sự năm 2000, công bố trên Infectious Disease Clinics of North America, cho thấy vi khuẩn như Escherichia coliProteus mirabilis có thể gây viêm kéo dài ở tuyến tiền liệt do chúng dễ dàng xâm nhập qua niệu đạo và tồn tại trong mô tuyến tiền liệt. Ngoài ra, các bệnh lây truyền qua đường tình dục như Chlamydia và Gonorrhea cũng có liên quan đến viêm tuyến tiền liệt, đặc biệt là trong các trường hợp viêm do nhiễm khuẩn tái phát.

Viêm tuyến tiền liệt mạn tính phổ biến hơn ở nam giới trung niên và cao tuổi, khi tuyến tiền liệt dễ phì đại và dễ bị viêm nhiễm hơn. Nghiên cứu của Collins và cộng sự năm 2002, đăng trên Prostate Cancer and Prostatic Diseases, chỉ ra rằng nam giới trên 50 tuổi có nguy cơ cao hơn mắc viêm tuyến tiền liệt mạn tính. Sự suy yếu của hệ miễn dịch và thay đổi trong cấu trúc tuyến tiền liệt theo thời gian cũng có thể làm tăng tính nhạy cảm với các bệnh viêm nhiễm.

Các công việc ít vận động hoặc lối sống ít di chuyển như tài xế, nhân viên văn phòng có nguy cơ cao bị viêm tuyến tiền liệt. Nghiên cứu của Nickel và cộng sự năm 2008 trên The Journal of Urology cho thấy ngồi lâu làm giảm lưu lượng máu đến vùng chậu, tạo điều kiện cho sự ứ đọng dịch tuyến và các chất gây viêm, dẫn đến nguy cơ viêm mạn tính.

Căng thẳng liên tục là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ viêm tuyến tiền liệt mạn tính. Theo nghiên cứu của Pontari và Ruggieri năm 2008 trên Current Urology Reports, căng thẳng kéo dài có thể làm tăng nồng độ cortisol, hormone này làm suy yếu hệ miễn dịch và tăng cảm giác đau, từ đó làm trầm trọng thêm các triệu chứng của viêm tuyến tiền liệt. Ngoài ra, stress kéo dài còn gây co thắt các cơ vùng chậu, gây đau đớn và làm trầm trọng thêm tình trạng viêm.

Táo bón kéo dài là một yếu tố nguy cơ phổ biến liên quan đến viêm tuyến tiền liệt. Theo Nickel và cộng sự (2008), táo bón mạn tính có thể tạo áp lực lên vùng chậu và tuyến tiền liệt, đồng thời gây ra sự ứ đọng và viêm. Việc rặn mạnh khi đi tiêu cũng có thể làm gia tăng áp lực lên tuyến tiền liệt, từ đó kích thích viêm mạn tính trong tuyến.

Quan hệ tình dục không an toàn là một yếu tố nguy cơ lớn cho các bệnh viêm nhiễm đường sinh dục. Nghiên cứu của Weidner và cộng sự năm 2002 trên European Urology cho thấy các bệnh lây truyền qua đường tình dục như Chlamydia và Gonorrhea là các nguyên nhân phổ biến gây viêm tuyến tiền liệt mạn tính do chúng dễ dàng xâm nhập vào niệu đạo và lan đến tuyến tiền liệt. Bên cạnh đó, quan hệ tình dục quá mức hoặc không điều độ có thể tạo áp lực lên tuyến tiền liệt và dẫn đến tổn thương mô tuyến.

Sự mất cân bằng hormone, đặc biệt là testosterone, có thể gây ra các vấn đề liên quan đến tuyến tiền liệt. Theo một nghiên cứu của Meinhardt và Mullins năm 2002 trên Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, sự suy giảm testosterone cùng với sự gia tăng dihydrotestosterone (DHT) có thể làm cho tuyến tiền liệt dễ bị viêm hơn. DHT là một dạng chuyển hóa của testosterone và được cho là có vai trò trong sự phát triển và viêm tuyến tiền liệt.

Chấn thương vùng chậu từ tai nạn hoặc hoạt động thể thao có thể gây tổn thương tuyến tiền liệt. Nghiên cứu của Marszalek và cộng sự năm 2007, đăng trên Nature Clinical Practice Urology, cho rằng các chấn thương hoặc áp lực trực tiếp lên vùng chậu có thể dẫn đến viêm nhiễm mạn tính do sự tổn thương và sự gia tăng vi khuẩn ở khu vực này.

Hút thuốc lá, rượu bia và các chất kích thích khác có thể làm suy yếu hệ miễn dịch và làm tăng nguy cơ viêm nhiễm. Nghiên cứu của Rohrmann và cộng sự năm 2005 trên Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention cho thấy rằng chất độc trong thuốc lá làm giảm lưu thông máu và làm gia tăng các phản ứng viêm ở tuyến tiền liệt.

Viêm tuyến tiền liệt mạn tính có thể xuất phát từ phản ứng miễn dịch tự phát của cơ thể. Theo nghiên cứu của Hochreiter và cộng sự năm 2000 trên The Journal of Urology, viêm tuyến tiền liệt không chỉ do nhiễm khuẩn mà còn có thể là kết quả của phản ứng tự miễn, khi hệ miễn dịch tấn công nhầm các tế bào của tuyến tiền liệt.

Nam giới đã từng bị viêm tuyến tiền liệt cấp tính có nguy cơ cao phát triển thành viêm mạn tính. Một nghiên cứu của Schaeffer năm 2003 trên The New England Journal of Medicine nhận thấy rằng những trường hợp viêm cấp tính chưa được điều trị triệt để thường dễ chuyển sang mạn tính, đặc biệt khi vi khuẩn vẫn tồn tại trong tuyến tiền liệt và gây tái phát.

Tài liệu tham khảo

  1. Krieger, J. N., Riley, D. E., Cheah, P. Y., Liong, M. L., & Yuen, K. H. (2000). Epidemiology of prostatitis: new evidence for a world-wide problem. Infectious Disease Clinics of North America, 14(3), 705-718.
  2. Collins, M. M., Stafford, R. S., O’Leary, M. P., & Barry, M. J. (2002). How common is prostatitis? A national survey of physician visits. Prostate Cancer and Prostatic Diseases, 5(2), 96-102.
  3. Nickel, J. C., Downey, J., Hunter, D., & Clark, J. (2008). Prevalence of prostatitis-like symptoms in a population-based study using the National Institutes of Health chronic prostatitis symptom index. The Journal of Urology, 179(4), 1736-1740.
  4. Pontari, M. A., & Ruggieri, M. R. (2008). Mechanisms in prostatitis/chronic pelvic pain syndrome. Current Urology Reports, 9(4), 301-307.
  5. Weidner, W., Schiefer, H. G., & Krauss, H. (2002). Role of Chlamydia in prostatitis. European Urology, 41(1), 87-95.
  6. Meinhardt, U., Mullins, L. J., McNeilly, A. S., & Saunders, P. T. (2002). How genes modulate the risk of developing prostatic diseases. Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, 87(2), 479-482.
  7. Marszalek, M., Madersbacher, S., & Rauchenwald, M. (2007). Inflammation and benign prostatic hyperplasia: cause or effect?. Nature Clinical Practice Urology, 4(9), 468-478.
  8. Rohrmann, S., Platz, E. A., & Giovannucci, E. (2005). Smoking and prostate cancer survival and recurrence. Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention, 14(10), 2545-2551.
  9. Hochreiter, W. W., Nadler, R. B., Koch, A. E., Campbell, P. L., Ludwig, M., Weidner, W., & Schaeffer, A. J. (2000). Evaluation of the cytokines interleukin-8 and epithelial neutrophil activating peptide in the seminal plasma of patients with prostatitis. The Journal of Urology, 164(3), 1044-1048.
  10. Schaeffer, A. J. (2003). Inflammatory conditions of the genitourinary tract: the role of antibiotics. The New England Journal of Medicine, 349(17), 1699-1708.
Bình luận của bạn Câu hỏi của bạn

Đặt
Lịch
Khám
Contact Me on Zalo