RỐI LOẠN CƯƠNG – NGUYÊN NHÂN, CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
Trung tâm Sức khoẻ Nam Giới Men's Health
Rối loạn cương là gì?
Rối loạn cương hay rối loạn chức năng cương dương là tình trạng không thể đạt được hoặc khả năng duy trì sự cương cứng liên tục đủ để thoả mãn quan hệ tình dục.
Theo thống kê tổng phổ biến của rối loạn cương là 52% nam giới. Ước tính vào năm 2025, tỷ lệ mắc rối loạn cương dương được dự đoán là khoảng 322 triệu trên toàn thế giới.
Trước đây, rối loạn cương thường được cho là do các vấn đề tâm lý gây ra. Hiện nay chúng ta biết rằng, đối với hầu hết nam giới, rối loạn cương là do các vấn đề về thể chất, thường liên quan đến việc cung cấp máu cho dương vật. Và hiện tại đã có nhiều tiến bộ trong cả chẩn đoán và điều trị rối loạn cương dương.
Cơ chế cương của dương vật
Cấu trúc chính của dương vật gồm có: 2 thể hang, thể xốp bao quanh niệu đạo và hệ thống mạch máu. Bao quanh bên ngoài thể hang là bao trắng, bên trong thể hang chứa những xoang mạch máu đặc biệt.
Khi có kích thích ham muốn, Nitric oxide được phóng thích ra lan toả vào cơ trơn thể hang và gây ra sự giãn cơ. Lúc này, lưu lượng máu động mạch tăng, đổ dồn vào các xoang hang làm cho thể hang chứa đầy máu. Bên cạnh đó, các tiểu tĩnh mạch dưới bao trắng căng lên, gây ra sự ngăn trở máu tĩnh mạch ra và tăng áp suất nội thể hang. Do vậy, dương vật cương cứng và tăng về kích thước.
Trung tâm điều khiển sự cương ở não nằm tại hệ liềm và hạ đồi. Dẫn truyền thần kinh ly tâm thông qua các dây thần kinh chậu. Các dây thần kinh chậu này nối với đám rối chậu, sau đó là dây thần kinh thể hang tại dương vật. Như vây, nếu kích thích thần kinh chậu sẽ gây tăng lưu lượng máu vào xoang thể hang rõ rệt.
Dây thần kinh hướng tâm đáp ứng sự cương được điều khiển bởi thần kinh lưng dương vật, giúp chuyển xung động cảm giác đến tuỷ sống.
Các yếu tố nguy cơ gây rối loạn cương dương
Rối loạn cương cũng là triệu chứng đi kèm các rối loạn và bệnh lý. Các yếu tố nguy cơ trực tiếp gây rối loạn cương dương có thể bao gồm:
- Các vấn đề về tuyến tiền liệt
- Bệnh tiểu đường
- Suy sinh dục kết hợp với một số bệnh lý nội tiết
- Tăng huyết áp ( huyết áp cao)
- Bệnh mạch máu và phẫu thuật mạch máu
- Lượng cholesterol trong máu cao
- Mức HDL thấp (lipoprotein mật độ cao)
- Rối loạn giấc ngủ mãn tính
- Thuốc
- Rối loạn thần kinh
- Bệnh Peyronie (biến dạng hoặc cong dương vật)
- Priapism (viêm dương vật)
- Phiền muộn, trầm cảm
- Sử dụng rượu
- Thiếu kiến thức tình dục
- Kỹ thuật tình dục kém
- Mối quan hệ giữa các cá nhân không đầy đủ
- Nhiều bệnh mãn tính, đặc biệt là suy thận và lọc máu
- Hút thuốc làm trầm trọng thêm tác động của các yếu tố nguy cơ khác, chẳng hạn như bệnh mạch máu hoặc tăng huyết áp
Tuổi tác dường như là một yếu tố nguy cơ gián tiếp mạnh mẽ vì nó có liên quan đến việc tăng khả năng mắc các yếu tố nguy cơ trực tiếp, một số yếu tố được liệt kê ở trên.
Việc xác định chính xác các yếu tố nguy cơ và đặc điểm là điều cần thiết để phòng ngừa hoặc điều trị rối loạn cương dương.
Nguyên nhân gây rối loạn cương
Rối loạn cương có liên quan đến những bất thường ở động mạch, tĩnh mạch dương vật và cả hai chính là nguyên nhân phổ biến. Khi có vấn đề về động mạch, nó thường là do xơ cứng hoặc xơ vữa động mạch.
Sự teo, hao mòn một phần hoặc hoàn toàn của mô cơ trơn và xơ hóa, sự phát triển của mô thừa trong thân dương vật (cơ trơn thể hang) gây ra các vấn đề về khả năng duy trì sự cương cứng. Khả năng duy trì sự cương cứng kém thường là triệu chứng ban đầu của rối loạn cương dương.
Mặc dù tình trạng này được gọi là rò rỉ tĩnh mạch, nhưng vấn đề thực sự không phải ở các tĩnh mạch mà là trục trặc của cơ trơn bao quanh các tĩnh mạch. Kết quả cuối cùng là khó duy trì sự cương cứng vững chắc (mất khả năng cương cứng quá nhanh).
Rối loạn cương dương thường gặp ở những người mắc bệnh tiểu đường. Ước tính khoảng từ 35 đến 50% trong số này bị rối loạn cương, liệt dương. Bệnh thần kinh ngoại biên, với sự tham gia của các dây thần kinh kiểm soát sự cương cứng, thường thấy ở những người mắc bệnh tiểu đường.
Phiền muộn, trầm cảm là một nguyên nhân rối loạn cương. Vì có mối quan hệ bộ ba giữa trầm cảm, rối loạn cương và bệnh tim mạch. Nam giới bị trầm cảm cần được đánh giá đầy đủ về bệnh lý cũng như các yếu tố tâm lý. Một số loại thuốc chống trầm cảm gây ra suy cương.
Nguyên nhân thần kinh. Có nhiều vấn đề thần kinh gây ra rối loạn cương. Bệnh tiểu đường, nghiện rượu mãn tính, bệnh đa xơ cứng, nhiễm độc kim loại nặng, tổn thương tủy sống, dây thần kinh và tổn thương dây thần kinh do hoạt động vùng chậu có thể gây rối loạn cương dương.
Rối loạn cương do thuốc. Rất nhiều loại thuốc kê đơn, chẳng hạn như thuốc huyết áp, thuốc chống lo âu và chống trầm cảm, thuốc nhỏ mắt tăng nhãn áp và thuốc hóa trị ung thư chỉ là một số trong số nhiều loại thuốc gây rối loạn cương.
Rối loạn cương do hormone. Các bất thường về nội tiết tố như: tăng prolactin, lạm dụng steroid của những người tập thể hình, quá nhiều hoặc quá ít hormone tuyến giáp và hormone tuyến tiền liệt gây ra tình trạng rối loạn cương. Testosterone thấp có thể góp phần nguyên nhân nhưng hiếm khi là yếu tố duy nhất gây ra rối loạn cương.
Chẩn đoán rối loạn cương như thế nào?
Quy trình chẩn đoán rối loạn cương sẽ gồm các giai đoạn sau:
Khai thác bệnh sử và tiền sử về tình dục. Điều này có thể tiết lộ các tình trạng hoặc bệnh lý dẫn đến rối loạn cương và giúp phân biệt giữa các vấn đề về cương cứng, xuất tinh, cực khoái hoặc ham muốn tình dục.
Kiểm tra thể chất để tìm bằng chứng về các vấn đề chẳng hạn như sau:
- Một vấn đề trong hệ thần kinh có thể liên quan đến nếu dương vật không phản ứng như mong đợi với một số va chạm nhất định.
- Các đặc điểm giới tính phụ, chẳng hạn như kiểu tóc, có thể chỉ ra các vấn đề về nội tiết tố, liên quan đến hệ thống nội tiết.
- Các vấn đề về tuần hoàn có thể được chỉ ra bởi chứng phình động mạch.
- Các đặc điểm bất thường của bản thân dương vật là cơ sở của rối loạn cương.
Thực hiện các loại xét nghiệm. Chúng có thể bao gồm công thức máu, phân tích nước tiểu, hồ sơ lipid, và đo creatinine và men gan. Đo nồng độ testosterone trong máu được thực hiện ở nam giới rối loạn cương, đặc biệt là có tiền sử giảm ham muốn tình dục hoặc tiểu đường.
Khám tâm lý xã hội. Điều này được thực hiện để giúp tiết lộ các yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng đến hiệu suất. Bạn tình cũng có thể được hỏi để xác định những mong đợi và nhận thức khi quan hệ tình dục.
Điều trị rối loạn cương
Điều trị rối loạn cương được xác định dựa trên:
- Tuổi, sức khỏe tổng thể và tiền sử bệnh của bạn
- Mức độ của bệnh
- Khả năng chịu đựng của bạn đối với các loại thuốc, thủ thuật hoặc liệu pháp cụ thể
- Kỳ vọng về quá trình của bệnh
- Ý kiến hoặc sở thích của bạn
Một số phương pháp điều trị rối loạn cương:
Điều trị bằng thuốc
Việc dùng thuốc cần có chỉ định của Bác sĩ sau khi thăm khám kỹ càng. Và đây là các loại thuốc được dùng để điều trị rối loạn cương:
- Sildenafil. Một loại thuốc theo toa được dùng bằng đường uống để điều trị rối loạn cương. Thuốc này hoạt động hiệu quả nhất khi uống lúc đói và nhiều nam giới có thể cương cứng từ 30 đến 60 phút sau khi uống thuốc. Cần kích thích tình dục để sildenafil citrate có hiệu quả tốt nhất.
- Vardenafil. Thuốc này có cấu trúc hóa học tương tự như sildenafil citrate và hoạt động theo cách tương tự.
- Tadalafil. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tadalafil citrate lưu lại trong cơ thể lâu hơn các loại thuốc khác cùng loại. Hầu hết nam giới dùng thuốc này nhận thấy rằng sự cương cứng xảy ra trong vòng 4 đến 5 giờ sau khi uống thuốc (hấp thu chậm) và tác dụng của thuốc có thể kéo dài đến 24 đến 36 giờ.
Nam giới mắc các bệnh lý có thể gây cương cứng lâu dài, chẳng hạn như thiếu máu hồng cầu hình liềm, bệnh bạch cầu hoặc đa u tủy hoặc nam giới có dương vật hình dạng bất thường, có thể không thấy hiệu quả từ các loại thuốc này.
Ngoài ra, nam giới bị bệnh gan hoặc bệnh võng mạc, chẳng hạn như thoái hóa điểm vàng hoặc viêm võng mạc sắc tố, có thể không dùng được các loại thuốc này hoặc có thể cần dùng liều thấp nhất.
Phụ nữ hoặc trẻ em không nên sử dụng các phương pháp điều trị này. Đàn ông cao tuổi đặc biệt nhạy cảm với tác dụng của các phương pháp điều trị này, điều này có thể làm tăng khả năng bị tác dụng phụ.
Liệu pháp thay thế Hormone
Liệu pháp thay thế testosterone có thể cải thiện năng lượng, tâm trạng và mật độ xương, tăng khối lượng cơ và trọng lượng, đồng thời nâng cao hứng thú tình dục ở những người đàn ông lớn tuổi có thể bị thiếu hụt mức testosterone.
Việc bổ sung testosterone không được khuyến khích cho những người đàn ông có mức testosterone bình thường đối với nhóm tuổi của họ do nguy cơ phì đại tuyến tiền liệt và các tác dụng phụ khác. Liệu pháp thay thế testosterone có sẵn dưới dạng kem hoặc gel, dung dịch bôi ngoài da, miếng dán da, dạng tiêm và dạng viên đặt dưới da.
Liệu pháp cấy ghép
Hai loại thiết bị cấy ghép được sử dụng để điều trị rối loạn cương, bao gồm:
- Bơm hơi Dương vật giả (bơm thủy lực 3 cái). Một máy bơm và hai xi lanh được đặt trong các buồng cương cứng của dương vật, nó gây ra sự cương cứng bằng cách giải phóng dung dịch muối; nó cũng có thể loại bỏ dung dịch làm xẹp dương vật.
- Dương vật bán cứng giả. Hai thanh bán cứng nhưng có thể uốn cong được đặt trong các khoang cương cứng của dương vật, cho phép thao tác vào tư thế cương cứng hoặc không cương cứng.
Nhiễm trùng là nguyên nhân phổ biến nhất của việc cấy ghép dương vật bị hỏng và chỉ xảy ra với tỷ lệ ít hơn 2%.
Cấy ghép thường không được xem xét cho đến khi các phương pháp điều trị khác đã được thử nghiệm nhưng chúng có tỷ lệ bệnh nhân hài lòng rất cao và là một lựa chọn điều trị tuyệt vời ở những bệnh nhân thích hợp.
Liệu pháp sử dụng sóng xung kích
Gần đây, trong điều trị tình trạng rối loạn cương, liệu pháp sử dụng sóng xung kích tần số thấp đang cho thấy hiệu quả, thậm chí không cần dùng thuốc. Việc đưa sóng trực tiếp lên dương vật sẽ tác động vào mạch máu và các dây thần kinh nhằm tăng cường lượng máu đổ dồn về dương vật và lưu giữ được lâu hơn.
Để tối ưu hiệu quả, liệu pháp sóng xung kích tần số thấp cần đi theo một liệu trình cam kết từ trước.
Kết luận
Rối loạn cương có thể gây căng thẳng cho cuộc sống vợ chồng. Nam giới sẽ né tránh quan hệ tình dục do mặc cảm liên quan đến rối loạn cương, khiến bạn tình của họ cảm thấy bị từ chối hoặc không đủ thoả mãn.
Dần dần, đời sống vợ chồng trở nên lạnh nhạt và có nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Tin tốt là chứng bệnh này thường có thể được điều trị một cách an toàn và hiệu quả nếu nam giới hiểu rõ về bệnh và lựa chọn phương pháp phù hợp.